Các chỉ số kỹ thuật củapolyacrylamidthường là khối lượng phân tử, độ thủy phân, độ ion, độ nhớt, hàm lượng monome còn lại, vì vậy để đánh giá chất lượng PAM cũng có thể dựa vào các chỉ số này!
01Trọng lượng phân tử
Trọng lượng phân tử của PAM rất cao và đã được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây.PAM, được sử dụng vào những năm 1970, có trọng lượng phân tử là hàng triệu. Từ những năm 1980, trọng lượng phân tử của PAM hiệu quả nhất là hơn 15 triệu, và một số đạt tới 20 triệu. “Mỗi phân tử PAM này được trùng hợp từ hơn một trăm nghìn phân tử acrylamide hoặc natri acrylate (acrylamide có trọng lượng phân tử là 71, và PAM với một trăm nghìn monome có trọng lượng phân tử là 7,1 triệu).”
Nhìn chung, PAM có trọng lượng phân tử cao có hiệu suất kết bông tốt hơn, với trọng lượng phân tử là 71 đối với acrylamide và 7,1 triệu đối với PAM chứa 100.000 monome. Trọng lượng phân tử của polyacrylamide và các dẫn xuất của nó từ hàng trăm nghìn đến hơn 10 triệu, theo trọng lượng phân tử có thể được chia thành trọng lượng phân tử thấp (dưới 1 triệu), trọng lượng phân tử trung bình (1 triệu đến 10 triệu), trọng lượng phân tử cao (10 triệu đến 15 triệu), trọng lượng phân tử siêu cao (trên 15 triệu).
Khối lượng phân tử của chất hữu cơ cao phân tử, ngay cả trong cùng một sản phẩm, cũng không hoàn toàn đồng đều, khối lượng phân tử danh nghĩa là khối lượng trung bình của nó.
02Mức độ thủy phân và mức độ ion
Độ ion của PAM có tác động lớn đến hiệu quả sử dụng của nó, nhưng giá trị phù hợp của nó phụ thuộc vào loại và bản chất của vật liệu được xử lý, sẽ có các giá trị tối ưu khác nhau trong các trường hợp khác nhau. Nếu cường độ ion của vật liệu được xử lý cao hơn (chứa nhiều chất vô cơ hơn), thì độ ion của PAM phải cao hơn, ngược lại, nó phải thấp hơn. Nói chung, độ anion được gọi là độ thủy phân. Và độ ion thường đề cập đến cation.
Độ ion =n/(m+n)*100%
PAM sản xuất trong giai đoạn đầu được trùng hợp từ monome polyacrylamide, không chứa nhóm -COONa. Trước khi sử dụng, cần thêm NaOH và đun nóng để thủy phân một phần nhóm -CONH2 thành -COONa. Phương trình như sau:
-CONH2 + NaOH → -COONa + NH3↑
Khí amoniac được giải phóng trong quá trình thủy phân. Tỷ lệ thủy phân nhóm amid trong PAM được gọi là mức độ thủy phân của PAM, tức là mức độ anion. Việc sử dụng loại PAM này không thuận tiện, hiệu suất kém (thủy phân nhiệt sẽ làm trọng lượng phân tử và hiệu suất của PAM giảm đáng kể), đã ít được sử dụng kể từ những năm 1980.
Sản xuất PAM hiện đại có nhiều loại sản phẩm có độ anion khác nhau, người sử dụng có thể tùy theo nhu cầu và thông qua thử nghiệm thực tế để lựa chọn loại phù hợp, không cần thủy phân, sau khi hòa tan có thể sử dụng được.Tuy nhiên, vì lý do thói quen, một số người vẫn gọi quá trình hòa tan của chất keo tụ là thủy phân. Cần lưu ý rằng ý nghĩa của thủy phân là sự phân hủy nước, đây là phản ứng hóa học. Quá trình thủy phân PAM có giải phóng khí amoniac; Hòa tan chỉ là một hành động vật lý, không có phản ứng hóa học. Hai quá trình này về cơ bản là khác nhau và không nên nhầm lẫn.
03Hàm lượng monome còn lại
Hàm lượng monome còn lại của PAM đề cập đến hàm lượng củamonome acrylamidtrong quá trình trùng hợp acrylamide thành polyacrylamide trong quá trình phản ứng không hoàn chỉnh và cuối cùng là dư lượng trong các sản phẩm acrylamide. Đây là một thông số quan trọng để đo lường xem nó có phù hợp với ngành công nghiệp thực phẩm hay không. Polyacrylamide không độc hại, nhưng acrylamide có một số độc tính. Trong polyacrylamide công nghiệp, rất khó để tránh được dấu vết dư lượng của monome acrylamide chưa trùng hợp. Do đó, hàm lượng monome dư lượng trongSản phẩm PAMphải được kiểm soát chặt chẽ. Lượng monome dư thừa trong PAM dùng trong ngành nước uống và thực phẩm không được vượt quá 0,05% trên phạm vi quốc tế. Giá trị của các sản phẩm nổi tiếng nước ngoài thấp hơn 0,03%.
04độ nhớt
Dung dịch PAM rất nhớt. Trọng lượng phân tử của PAM càng cao thì độ nhớt của dung dịch càng lớn. Điều này là do các đại phân tử PAM là các chuỗi dài, mỏng có sức cản lớn khi di chuyển trong dung dịch. Bản chất của độ nhớt là phản ánh độ lớn của lực ma sát trong dung dịch, còn được gọi là hệ số ma sát bên trong. Độ nhớt của dung dịch của tất cả các loại chất hữu cơ polyme đều cao và tăng theo sự gia tăng của trọng lượng phân tử. Một phương pháp để xác định trọng lượng phân tử của chất hữu cơ polyme là xác định độ nhớt của một nồng độ dung dịch nhất định trong một số điều kiện nhất định, sau đó theo một công thức nhất định để tính trọng lượng phân tử của nó, được gọi là "trọng lượng phân tử trung bình của viscose".
Thời gian đăng: 12-01-2023